hội thảo về Bến bạc và đền cô Bơ Bến Bạc đã không chỉ đem lại những kết quả nghiên cứu mới về Bến Bạc mà còn cho thấy mối liên hệ gắn bó hữu cơ giữa Bến Bạc với đền Cô Bơ và dòng chảy sông Hồng. Đặc biệt với các căn cứ, sử liệu đã tái hiện lại vị...
hội thảo về Bến bạc và đền cô Bơ Bến Bạc đã không chỉ đem lại những kết quả nghiên cứu mới về Bến Bạc mà còn cho thấy mối liên hệ gắn bó hữu cơ giữa Bến Bạc với đền Cô Bơ và dòng chảy sông Hồng. Đặc biệt với các căn cứ, sử liệu đã tái hiện lại vị thế của làng Bạc với đủ cơ cấu Sĩ - Nông - Công - Thương và là làng nơi có cảng sông lớn ngay từ những năm đầu Công nguyên.
cuốn sách gồm 130 trang chia thành hai phần chính văn và phụ lục. Phần chính văn gồm ba mục lớn: I Vài nét khái quát về địa văn hóa quận Tây Hồ và vùng văn hóa Hồ Tây - Sông Hồng; phần II Di tích đền Cô Bơ Bến Bạc. cũng là nội dung chính của cuốn sách. Phần III: Dền cô Bơ Bến Bạc trong chiến lược phát triển du lịch tâm linh sông Hồng.
Cuối cùng phần phụ lục là các ảnh, tài liệu Hán văn phản ảnh, có liên quan đến Bên Bạc, Đền cô Bơ Bến Bạc.
Viết về thờ Nữ thần nói chung, về thờ mẫu ở VN nói riêng đã có khá nhiều các nghiên cứu được thực hiện dưới các dạng khác nhau như lược sử thần tích và bình luận (Đặng Văn Lung); Nghiên cứu mô tả dân tộc học có Bùi Văn Tam (2016); So sánh khái quát và nâng lên thành lý luận (Ngô Đức Thịnh 2014); Nghiên cứu ca từ nghi lễ (Barly Norton 2010 ); Nghiên cứu phân tích dưới góc độ nhân học, tâm lý học tôn giáo và tâm lý bệnh học (Nguyễn Ngọc Mai 2013), Nguyễn Thị Hiền (2011)…Ngoài ra còn rất nhiều các bài viết đơn lẻ tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau của hình thức tôn giáo dân gian này (cả phương diện điện thần, ca từ, trang phục, bản hội….). Từ đó cho thấy đây là một loại hình tôn giáo dân gian rất đặc biệt. Đặc biệt cả phương diện thần tích và nghi lễ, nhưng làm nổi rõ giá trị khác biệt của nó thì gần như chưa có một tổng kết riêng biệt nào. Bài viết này tập trung vào tìm hiểu những giai thoại, thần tích, câu chuyện lưu truyền trong các tài liệu đã có về nhân vật thần Mẫu Liễu Hạnh. Kết hợp với cách thức thờ phụng, niềm tin của tín đồ vào Thánh mẫu; phương thức thực hành nghi lễ và những giá trị thặng dư mà thông qua việc thờ cúng, tham gia bản hội thực hành nghi lễ thờ Mẫu các cá nhân, cộng đồng có được. Từ những cứ liệu này bài viết chắt lọc và làm nổi lên những giá trị khác biệt của hiện tượng thờ Mẫu Liễu Hạnh, thông qua đó góp phần lý giải sức sống mãnh liệt của hiện tượng thờ Mẫu ở VN.
Trên hình ảnh là đền thánh Sa châu là vùng đất cùng dải với quất lâm và Thức Hóa, vùng đất có dân định cư từ tyhế kỷ XVI - XVII. Theo truyền khẩu và các nguòn tư liệu gia phả thì dân cư ở đây phần lớn từ làng Gòi ( Hưng Yên) đến lập ấp.
Cư dân tại đây đón nhận Tin Mừng khoảng năm 1730 do các Thừa sai từ Quất lâm đến phục vụ. Năm 1790 các thừa sai cùng với giáo dân xây dựng nhà thờ và giáo họ Sa Châu được thành lập.
hoạt động tọa đàm với ban tôn giáo, sở nội vụ Nam đình cùng các ban ngành : Dân vận, Mặt Trận, sở VH nhằm khai thác và nắm bắt được thông tin ban đầu về tình hình quản lý các hoạt động TNTG trên địa bàn tỈnh Nam ĐỊnh.
Bài viết cố gắng làm rõ nội hàm khái niệm tâm linh và văn hóa tâm linh của người VN. cung cấp các khái niệm nhà tâm linh, sự xuất hiện tâm linh.
Bài viết đã in trong kỷ yếu hội thảo " Tiếp tục phát huy các giá trị văn hóa tâm linh: thưucj trạng những vấn đề dặt ra và định hướng phát triển trong giai đoạn mới" tháng 7/2022 tại Hn và tháng 2/ 2023 tại TP HCM.
Trong tương quan với hai địa danh phủ Tiên Hương và phủ Vân Cát (trong quần thể khu đền phủ thờ Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giầy – Nam Định), Phủ Bóng không thuộc quê cha (thôn Tiên Hương) hay quê mẹ (thôn Vân Cát) của nữ thần Liễu Hạnh, vì thế không ít người, thậm chí các thanh đồng, đạo quan đánh giá thấp vai trò của nó. Bài viết sẽ tập trung lý giải về các lớp tôn giáo dân gian của Phủ Bóng, lịch sử phát triển của nó và chỉ rõ vai trò của nó trong hành trình sáng tạo thần linh trong tôn giáo dân gian của người Việt.
Hội thảo quốc tế về "nguồn lực tôn giáo, kinh nghiệm quốc tế cho việt nam" là lần thức hai giới khoa học xã hội lên tiếng để cho cộng đồng và giứoi chức thấy được rằng tôn giáo không phải chỉ là " hình thái ý thức xã hội" ; là thực thể xã hội mà tôn giáo với những vị trí và chức năng đặc biệt của mình còn có thể là một nguồn lực to lớn giúp ích cho sự nghiệp thiết lập một cộng đồng xã hội ổn định, nhân văn và xây dựng đất nước phồn thịnh. Cùng với một vài bài viết khác, bài viết "Nguồn lực Tôn giáo ở Việt Nam – Một số vấn đề đặt ra" của TS nguyễn Ngọc Mai cũng cho thấy trước hết cần hiểu thế nào là nguồn lực tôn giáo và sử dụng nguồn lực tôn giáo trên những phương diện nào và vấn đề đã và đang đặt ra ở Việt Nam là gì. Bài viết đã được báo cáo tại hội thảo quốc tế tổ chức vào tháng 12/2021 và in trong kỷ yếu hội thảo. Xin trân trọng giới thiệu tại đây để những ai quan tâm tham khảo.
Sinh trưởng và phát triển trên núi cao của Yên Bái, cây chè xanh được người dân địa phương trồng, thu hái và chế biến theo phương thức cổ truyền để cho ra sản phẩm chè Bát Tiên độc đáo. Nước trà khi pha có màu xanh trong vắt của núi rừng và mùi thơm thảo mộc tinh khiết. Nhấp một ngụm cho ta cảm giác được nếm dư vị của trời đất và để lại vị ngọt thanh rất lâu trong khoang miệng!
Cuốn sách là kết quả nghiên cứu của đề tài cấp bộ do nhóm nghiên cứu tôn giáo dân gian thực hiên trong 2 năm 2017 - 2018. Công trình đi sâu vào trình bày thực trạng biến đổi của TGDG và những ảnh hưởng của nó đối với phát triển bền vững ở VN.
Thuật ngữ tôn giáo nội sinh Nam bộ cho đến nay không còn xa lạ với bất kỳ nhà nghiên cứu tôn giáo nào ở Việt Nam. Khái niệm nhằm chỉ các tôn giáo được sản sinh bởi các ông Đạo khu vực đồng bằng sông cưu Long thời gian cuối XVIII – đầu XIX. Bao gồm: Bửu sơn Kỳ hương gắn với người sáng lập là Đoàn Văn Huyên , Tứ ân Hiếu nghĩa gắn với nhân vật Ngô Lợi, Hòa Hảo gắn với Huỳnh Phú Sổ và Phật giáo hiếu nghĩa Tà Lơn gắn với nhân vật Nguyễn Văn An…cho đến nay mặc dù vẫn tồn tại như những chi phái tôn giáo độc lập.Tuy nhiên, qua khảo sát về lịch sử phát triển, quá trình hoạt động, tôn chỉ mục đích đặc biệt là phương châm hành đạo và những đóng góp cho vùng văn hóa Nam bộ nói riêng và cả nước nói chung cho thấy các tôn giáo này có rất nhiều điểm tương đồng. Một trong những điểm chung đó mà chúng tôi đề cập ở đây chính là sứ mệnh của nó thời kỳ khởi thủy. Bài viết đã được đăng trên tạp chí nghiên cứu tôn giáo số 10/2020.
Du lịch văn hóa ở VN cũng là một thế mạnh, có nhiều loại hình văn hóa đã được đài truyền hình nổi tiếng thế giới CNN chọn lựa để giới thiệu về con người, văn hóa và đất nước Việt Nam. Trong đó Đạo Mẫu cũng là một sản phẩm du lịch tâm linh văn hóa đặc thù được CNN chọn lựa để giới thiệu về Việt Nam với thế giới.
• Phong tục tập quán của mỗi tộc người đều hình thành và tồn tại trên nền tảng văn hóa, xã hội và phương thức sản xuất của mỗi tộc người. Nó vừa là tri thức tộc người vừa là những mật mã văn hóa đề truyền đạt lại cho thế hệ sau. cũng có phong tục phù hợp và có ý nghĩa trong cuộc sống hôm nay nhưng chưa chắc đã có ý nghĩa và phát huy tác dụng trong cuộc sống tương lai. Vì thế nhiều phong tục xưa đã không còn phù hợp trong đời sống xã hội hiện đại và cần vận động để các phong tục đó không còn được thực thi trong đời sống. Tuy nhiên nếu cứ khoác cho nó cái định danh "Hủ tục" và gán cho mọi phong tục nhìn bên ngoài có vẻ không còn phù hợp nữa thì cũng gây ra những hệ lụy không nhỏ.
Hủ = gỗ mục, chữ Hủ có bộ nhục bên cạnh ( có nghĩa là thối nát, rữa) phàm vật gì thối nát đều họi là hủ. Tục là tục lệ. Với cách nhìn khô cứng này, suy luận từ tư duy của chủ thể tự cho mình là cao hơn, văn minh hơn và cũng ít hiểu biết về bản chất của tín ngưỡng tôn giáo hay phong tục của các chủ thể khác mà gán cho các phong tục cũ của họ là Hủ tục. cách nhìn này khi thiết kế chính sách đã gây không ít hệ lụy và góp phần làm biến mất nhiều sắc thái văn hóa tộc người. Talk show về "Hủ tục" góp phần định danh lại cho những sắc thái văn hóa xưa và cũng là tiếng nói của các nhà chuyên môn trong vấn đề nhìn nhận về phong tục tập quán của các tộc người thiểu số ở VN.
TS.Nguyễn Ngọc Mai trả lời phóng vấn tại trường quay của truyền hình nhân dân trong chuyên mục góc nhìn văn hóa: "Hủ tục" của đồng bào dân tộc thiểu số.
Chùa Phật giáo hiếu nghĩa Tà Lơn khiếm tốn chỉ là dãy nhà tôn nhỏ bé nằm ở phường Mỹ quý- TP Long Xuyên - An Giang. chùa thờ giáo sư Nguyễn An - được coi là tiền bối, giáo chủ của chi phái Phật Giáo hiếu NGhĩa Tà Lơn ở An giang. Chùa có đặc điểm thờ rất nhiều các vị tiền bối có công với dân với nước, thờ Phật và thần nữ. Nhưng ấn tượng hơn cả vẫn là bức Trần Điều màu đỏ thắm trên các ban thờ. Đây cũng là dấu hiệu cho thấy mối liên hệ sâu sắc giữa Phật Giáo Hiếu nghĩa Tà Lơn và Bửu Sơn Kỳ Hương.
kỷ niệm đẹp đẽ những ngày sống ở New Zealand