thực hành tín ngưỡng thờ mẫu Tam phủ

Thứ bảy - 19/05/2018 20:24
Khái niệm Tam phủ và Tứ phủ cho đến nay vẫn còn nhiều điều chưa được sáng tỏ. Bài viết sẽ làm tường minh sự hội nhập giữa tam tòa thánh Mẫu và Tam phủ để làm thành tứ phủ công đồng như vẫn thấy ngày nay.
Bài viết đã đăng trên tạp chí Tia sáng, số 04 ngày 20/2/2017.
Giá quan Triệu Tường
Giá quan Triệu Tường
      Trong hầu hết các loại hình tôn giáo tín ngưỡng truyền thống ở Việt Nam thì có lẽ thờ thần, thánh là một loại hình tiêu biểu nhất. Tiêu biểu không chỉ bởi bề dày trong lịch sử của nó mà còn là loại hình tâm linh chiếm thị phần số đông trong dân chúng Việt Nam.
Hệ thống thần thánh ở Việt Nam hết sức đa dạng với nhiều dạng như: thần tự nhiên : mây, mưa, sấm chớp, đất, nước, núi, cây, rắn, đá… ;có nhân thần: anh hùng lịch sử,  anh hùng văn hóa, và anh hùng cộng đồng. Thờ Mẫu Tam phủ vừa là thần tự nhiên, vừa là một dạng anh hùng văn hóa. Thần tự nhiên thể hiện ở nguồn gốc xuất thân tiên giới (trong tam phủ đại diện cho miền trời – Mẫu Thượng Thiên), nhưng huyền tích và hành vi của nhân vật Mẫu liễu lại thể hiện toàn bộ khát vọng của người phụ nữ Việt Nam. Phát triển trên nền của thờ nữ thần ở Việt Nam, sự tái cấu trúc lại trong hiện tượng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở cuối thế kỷ XVI đầu XVII không chỉ thể hiện khát vọng được tự do và mưu cầu hạnh phúc của người phụ nữ mà còn cho thấy rõ ràng một ý thức mãnh liệt của dòng văn hóa Mẹ và nhu cầu đòi được tôn trọng của một nửa thế giới trên đất này, vì thế bà còn được xem là một dạng của anh hùng văn hóa.
Thờ mẫu Liễu Hạnh xưa có hệ thống riêng được gọi là Tam tòa Thánh mẫu (thờ nữ thần Liễu Hạnh và hai thị nữ: Quỳnh hoa và Quế hoa) đều là những nữ thần có nguồn gốc tiên giới. Trong hệ thống này, Liễu Hạnh vừa là thần chủ, vừa là vị tối linh thần của cư dân thương mại. Ra đời vào cuối thế kỉ XVI – XVII, thời kỳ phát triển của tầng lớp thứ tư trong hệ thống thứ bậc xã hội truyền thống: Sĩ – Nông – Công – Thương, tầng lớp thương nhân bắt đầu khẳng định được vị thế xã hội của mình. Sự phát triển của nền kinh tế thương mại thời gian này cũng đồng nghĩa với nhu cầu cần có biểu tượng linh thần để quán xuyến, đáp ứng những nhu cầu của một tầng lớp đang lên. Mô thức Liễu Hạnh ra đời!
 Hình tượng Mẫu Liễu vừa là đại diện cho những nữ thần Việt truyền thống, vừa là hình ảnh điển hình của người phụ nữ Việt: là nguồn lợi lớn trong gia đình “ tứ nữ bất bần” vừa “gánh vác giang sơn nhà chồng” vừa là những người đầu tiên làm thương mại “ thắt lưng bó que, xắn vai quai cồng, quanh năm buôn bán ở mom sông” (Tú Xương). Vị nữ thần này có sử tích lưu truyền trong dân gian khác hẳn các thần linh khác. Bà là con gái Ngọc Hoàng, do đánh vỡ chén ngọc bị đày xuống trần gian đầu thai vào nhà Lê Thái Công tại thôn Thiên Bản (Vụ bản). Cuộc đời và huyền kỳ về người phụ nữ có nguồn gốc tiên giới này diễn ra khá phức tạp và liên quan chặt chẽ đến ba lần xuống trần và các địa danh: Vụ Bản (Nam Định – nơi sinh); Sòng Sơn (Thanh Hóa - nơi bà mở quán bán hàng) và Tây Hồ (Hà Nội- nơi xướng họa thơ văn với các Nho sinh đất kinh kỳ).  Lần một làm con nhà Lê Thái Công, sau lấy chồng là Đào Lang; lần hai tự ý xuống trần về thăm cha mẹ và lên Tây Hồ (Hà Nội) xướng họa thơ văn với Nho sinh, vào Nghệ An kết hôn với hậu sinh của chồng (kiếp đầu thai sau); Lần 3 xuống trần mở quán bán hàng ở khu vực đèo ngang và nảy sinh cuộc đại chiến tại Sòng Sơn[1] (với thế lực của bát vị Kim cương do Phật bà phái đến)[2] từ lần thất trận này bà quy y theo Phật. Đây là lí do giải thích vì sao trong khuôn viên chùa Việt thường hay có kiến trúc phủ Mẫu (tiền phật, hậu Thánh). Trong dân gian gọi là phủ Bà Chúa Liễu.
      Ngày nay tại nơi bà thác sinh còn quần thể di tích phủ Dày gồm: Phủ Tiên Hương (quê chồng); Phủ Vân Cát (quê mẹ). Lễ hội thờ bà Chúa Liễu tại Thiên Bản (Vụ Bản) ngay từ thời Nguyễn đã là lễ hội lớn có quy mô cấp quốc gia. Chuyên mục “nghi lễ phổ thông”, tạp chí Nam Phong năm 1930 cũng đã phản ánh về lễ thức tế lễ Mẫu Liễu với tư cách Thánh Mẫu rất trang nghiêm và có phần quy củ mang tầm cỡ quốc gia với sự tham gia của các quan chức đương thời như sau: “Lễ thức chúa Liễu: tục xưng Thánh Mẫu, ngài thác sinh ở làng Thiên Bản thuộc huyện Vụ Bản, Nam Định. Đền thờ chỗ ấy gọi là Vân Cát, lúc tế Ngài, đàn bà mặc áo mũ vào tế, đệ niên ngày hội quan huyện và quan tỉnh về làm lễ rất tôn nghiêm, đền ở Sùng Sơn Thanh hóa thờ Ngài rất là linh ứng cho nên bản triều sức cho quốc tế”[3]. Trong dân gian khu vực này vẫn gọi về hệ thống này là Tam tòa Thánh Mẫu. Tại Phủ Tiên Hương (phủ Chính) hiện nay vẫn còn hiện diện trong hậu cung ba ngôi Tam tòa Thánh Mẫu. Khái niệm Thánh Mẫu Tam phủ theo chúng tôi có thể là một cách gọi/ đọc gán từ chữ Phủ trong Phủ Dày, hoặc là cách dân gian muốn sử dụng hệ thống thờ cúng Mẫu Liễu tam tòa này để đối ứng âm – dương với một hệ thống Tam phủ khác thờ cúng ba vị nam Thần: Thiên Thần – Địa Thần – Thủy Thần.
Hệ thống Tam phủ thờ ba vị nam thần (Thiên – Địa – Thủy) có nguồn gốc là các vị thần tự nhiên khác được dân gian thờ cúng và thực hành tế lễ từ rất lâu đời, thậm chí có thể có trước hệ thống thờ Mẫu Liễu. Đây là một hệ thống thờ các vị thần của vùng sông nước. Đền thờ những vị thần này phân bố chủ yếu ở các vùng Duyên giang (ven sông, biển). Mục “nghi lễ phổ thông” trong tạp chí Nam Phong  (1930, 1934) cho biết; “ tế lễ Tam phủ bao gồm tế thần linh Thiên phủ, Địa phủ và Thoải phủ ở các xã Duyên Giang (vùng ven sông, biển) đều thờ đức Tam Phủ”.  Ngày nay vẫn còn các di tích đó: đền thờ quan Tam phủ (Hải Dương); đền thờ Tam phủ (Hoài Đức, PhúcThọ) và nhiều địa phương khác nữa. Quy mô thờ cúng các vị thần Tam phủ này chỉ ở các cấp độ làng xã, cả hai hệ thống thờ cúng này đều có những thực hành tế lễ bởi dân địa phương nhưng có quy mô khác nhau và văn khấn khi tế lễ cũng khác nhau: cụ thể
- Văn Khấn chúa Liễu: “Cung duy Liễu Hạnh, công chúa sắc phong Chế Thắng Hoà Diệu Đại v­ương Ngọc Động hạ. Mẫu nghi thiên hạ, mặc tư­ớng sinh linh. Sùng Sơn hiển thánh, Thiên Bản giáng sinh. Ti dân hộ quốc, giáng vũ khu tình; Cầu chi tất ứng, lễ bản hồ thành.Thần tứ chi phúc, cộng h­ưởng an ninh ».
- Văn khấn Tam phủ: “Mỗ niên Nguyệt Nhật, mỗ quán mỗ danh, cẩn dĩ lễ vật thứ - phẩm cung tiến vu. Thiên - phủ tôn thần bảo toạ; Điạ - phủ tôn thần bảo toạ; Thuỷ - phủ tôn thần bảo toạ. Kính duy quyền tham chủ tế;  hoả diệu tài thành.Tế nhãn hoàn phú- tái chi công; nhuận vật hợp thí - sinh chi đức. Ng­ưỡng kỳ giáng giám; bảo hựu khang ninh. Tứ thời vô hạn lạo chi tai, phong hoà vũ thuận; hợp cảnh h­ưởng thuần - hi chi phúc, vật phụ nhân khang. Thần đẳng bất thăng nguyện vọng chi chí. Cẩn tấu”[4]
Như vậy, cho đến đầu thế kỷ XX thì hiện t­ượng thờ cúng Mẫu Liễu Hạnh với t­ư cách là vị Thánh phù dân giúp nư­ớc (ti dân hộ quốc); giáng phúc, giáng hoạ (Thần tứ chi phúc) và hiện tượng thờ cúng thần linh Tam phủ với tư­ cách là các vị Thần tự nhiên phù hộ cho mư­a thuận gió hoà, nhân khang vật thịnh (tứ thời vô hạn lạo chi tai, phong hoà vũ thuận; hợp cảnh hưởng thuần - hi chi phúc, vật phụ nhân khang) là hai hình thức tín ngư­ỡng khác biệt. Một đằng là tín ngưỡng có quy mô tế lễ mang tầm cỡ quốc gia và một đằng là tín ng­ưỡng có quy mô tế lễ ở làng xã.  Điều đó chứng tỏ cho đến giai đoạn này, dòng thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh với tư cách Tam Tòa Thánh Mẫu và dòng thờ Thần nước, Thần Đất, Thần trời (Tam phủ) vẫn là hai hệ thống tín ngưỡng dân gian với những dạng thức thực hành nghi lễ riêng biệt.
       Khái niệm Tứ phủ là một khái niệm  muộn, mới xuất hiện gần đây. Có sự giải thích cho rằng có thể do sự hợp nhất với các thần linh vùng sơn cước vào hệ thống thần linh Tam phủ mà thêm một phủ nữa là phủ Nhạc - miền rừng (đây là lý do cho thấy tại nhiều địa điểm thờ Mẫu hiện nay ban thờ mẫu Thượng Ngàn được tách ra ở một nơi riêng biệt). Nhưng cũng rất có thể  khái niệm Tứ phủ là chỉ sự hợp nhất của phủ Dày (phủ thờ Mẫu Liễu Hạnh) với hệ thống Tam phủ nam thần (Thiên – Địa – Thủy) mà thành Tứ phủ. Chữ Phủ ở khu vực Vụ Bản lúc đầu chỉ khu vực hành chính: phủ Dày là địa bàn người dân sinh sống và làm nghề bánh dầy[5]. Sau khi có huyền tích li kỳ về Mẫu Liễu mà thành tên gọi Phủ Mẫu (chỉ nơi thờ Mẫu) và đã bị hiểu lầm/ đánh đồng/ làm thành một phủ và ghép vào trong hệ thống Tam phủ mà làm thành Tứ phủ. Đây cũng là quy luật hợp nhất, giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa các cư dân và các vùng miền. Hệ thống thần điện hiện nay trong thực hành nghi lễ lên đồng đã chứng tỏ sự hội họp giữa các miền vùng này.
Không rõ trong quá trình xây dựng hồ sơ di sản văn hóa các nhà quản lý văn hóa có cân nhắc đến những cứ liệu này không và diễn biến của quá trình xây dựng hồ sơ di sản với nội hàm như thế nào, nhưng tôi cho rằng khi tổ chức UNESCO công nhận “thực hành nghi lễ thờ Mẫu Tam phủ là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại” là công nhận hệ thống thờ Mẫu Liễu Hạnh mà đã vô tình bỏ quên (hoặc được hiểu là đã gồm cả thực hành nghi lễ đối với hệ thống thần linh Tam phủ/ nam thần) và hệ thống thần linh các vùng sơn cước và các địa phương khác hiện đã và đang hội họp trong tín ngưỡng thờ Mẫu và thực hành nghi lễ lên đồng hầu bóng hiện nay. Nói như Trần lâm Biền đó là hệ thống với bốn lớp linh thần: thần linh sáng tạo (Mẫu)  thần linh thực hiện ý đồ sáng tạo (ngũ vị tôn ông/ quan); thần linh phát huy sáng tạo (Chầu bà) và thần linh là hệ quả của sự sáng tạo (ông Hoàng, Cô, Cậu). Chính điều này đã gây ra những tranh cãi thời gian qua.
Trong các hình thức tế lễ Thánh mẫu Liễu Hạnh dưới thời xưa ngoài tế nam quan, nữ quan còn tồn tại một hình thức khác là nhập đồng Thánh Mẫu[6]. Nghi lễ này dung chứa nhiều lễ thức từng tồn tại nhiều trong dân gian từ trước đó bao gồm: nhập hồn, múa bóng, hát văn mà đã từng xuất hiện nhiều trong các cuộc lên đồng tế lễ các nữ thần khu vực miền Trung Việt  Nam: đền thờ Quế Nương (ở phía nam động Tam Thạch thuộc phủ Cam Lộ (trấn Thuận Hoá/ Huế)…; đền thờ Thánh Mẫu ở xã Kim Khê/ Vĩnh lộc/ Thanh Hóa….).  Về giá trị của thực hành nghi lễ này tôi đã viết rất kỹ trong sách “Nghi lễ lên đồng lịch sử và giá trị” xuất bản năm 2013, và do khuôn khổ của bài viêt tạp chí vậy nên chỉ xin tóm lược lại như sau:
* Nghi lễ này có nguồn gốc từ sự hỗn hợp/ dung hợp của khá nhiều yếu tố: Tục lập thi (xác cốt/ nhập hồn) vốn dĩ lưu truyền trong dân gian từ rất xa xưa ở Trung quốc và có lẽ du nhập vào Việt Nam khoảng thời Bắc Thuộc và lưu hành trong dân gian với các hình thức Gọi Hồn, Nhập Hồn, về sau được sử dụng trong thờ Mẫu Tam phủ như một phương cách để tiếp nhận với linh hồnThánh Mẫu. Trong Lên đồng còn du nhập cả các điệu thức trong múa Bóng thờ thần của người Chăm (do sự thâu hóa văn hóa Chăm của người Việt trong khoảng thế kỷ X- XV) để rồi đến thế kỷ XVI – XVII  khi Thờ Thánh Mẫu thịnh hành thì những yếu tố này được cấu thành lại mà làm thành diễn xướng nghi lễ lên đồng như chúng ta thấy ngày nay (ở miền Trung VN xưa gọi là “ tiệc hát”[7].
* Nghi lễ lên đồng xưa cũng như nay đều có những giá trị đặc thù về nhiều mặt như: lịch sử, văn hóa, tôn giáo và y học. Trong thực hành nghi lễ lên đồng hầu bóng là một hình thức diễn xướng dân gian có sự tham gia của nhiều yếu tố nghệ thuật đặc sắc: nghệ thuật biểu diễn trang phục, âm nhạc, ca từ, diễn xuất đóng vai… các lời ca từ hát văn đều là những truyền thuyết, thần tích, giai thoại đẹp đẽ kể về những lịch sử, hành trạng, công lao của các vị thần. Ở phương diện thẩm mỹ tôn giáo thì thực hành nghi lễ lên đồng là để con người trần tục có thể vươn tới Thánh, Thần/ nhất thể với Thánh, Thần.
* Đặc biệt, từ phương diện y học, tâm lý bệnh học khi thực hành nghi lễ lên đồng, các chủ thể Đồng xưa (có căn tính đặc biệt khác người) hoặc các Thanh Đồng nay (là người nhạy cảm) khi ở vào không gian tôn giáo, với tác dụng của âm nhạc, chất kích thích, màu sắc, hương, lửa… rất có thể xảy ra trạng thái cảm xúc được phóng thích, các huyệt đạo được khai mở mà xuất hiện trạng thái hưng phấn ở trường độ cao. Nói cách khác trong trạng thái lên đồng hoạt động ý thức yếu đi và thu hẹp giao diện hoạt động nhường chỗ cho hoạt động vô thức chiếm ưu thế mà tạo ra trạng thái ngây ngất.  Không hiếm trường hợp các đồng có thể xuất hiện khả năng tâm linh[8]; hay chí ít cũng tạo ra trạng thái hưng phấn khác thường trong và sau nghi lễ khiến nhiều cá nhân mắc các chứng bệnh thần kinh (trầm nhược ở các thể hưng cảm hay trầm cảm) có thể khỏi bệnh[9]. Điểm đặc biệt này của một số căn Đồng khi thực hành nghi lễ đã tạo ra quyền uy cho cá nhân họ với vai trò người trung gian (Medium) và cũng chính là “điểm mờ” của nghi lễ. Từ đây dẫn đến sự ngộ nhận của nhiều Thanh đồng, và cũng kéo theo hệ lụy không ít cho những người cuồng tín nếu như những Thanh đồng cố tình lợi dụng thực hành nghi lễ để phục vụ lợi ích cá nhân.
       Tóm lại, là một thực hành nghi lễ tôn giáo độc đáo, nghi lễ lên đồng hầu bóng đã không chỉ mang những thông điệp từ trong quá khứ đến hiện tại mà trong chức năng, vai trò của mình, diễn xướng nghi lễ lên đồng không chỉ tạo ra những cơ hội thu hẹp khoảng cách giữa thần – người để vươn tới những giá trị thẩm mỹ tốt đẹp mà với tập hợp các lễ phục, âm nhạc, đạo cụ ….nghi lễ lên đồng còn như một bảo tàng sống về văn hóa Việt Nam/.
 
[1]Trong các tài liệu cũ ghi là Sùng Sơn
[2] Được giới nghiên cứu gọi là cuộc chiến với nội đạo tràng
[3] Thiện Đình (1930) nghi lễ phổ thông, tc Nam phong số 150.
[4] Thiện đình ( 1930) Nghi lễ phổ Thông, tạp chí Đông Dương.
[5] Giống như cách đặt tên phủ Xuân Trường, Phủ Phụng Thiên, Phủ Lý Nhân thời Lê
[6] Ngày nay chúng tôi gọi bằng khái niệm “lên đồng hầu bóng”.
[7] Xem thêm Lê Hữu Trác (1971) Thượng Kinh Kí sự, Nxb văn học, tr 19
[8] Khả năng có thể thần giao cách cảm, nghe thấy, nhìn thấy những âm thanh, hình ảnh trong vũ trụ, hoặc tiếp nhận được các sóng âm
[9] Xem thêm: Nguyễn Ngọc Mai ( 2013) Nghi lễ lên đồng lịch sử và giá trị, Nxb VH, tr 341.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

du hoc trung han o New Zealand

kỷ niệm đẹp đẽ những ngày sống ở New Zealand

Báo thể thao và văn hóa phỏng vấn TS Nguyễn Ngọc Mai
Thăm dò ý kiến

Bạn thấy nội dung của trang web KhaiTue.Edu.Vn của TS Nguyễn Ngọc Mai như thế nào?

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập6
  • Máy chủ tìm kiếm1
  • Khách viếng thăm5
  • Hôm nay980
  • Tháng hiện tại30,393
  • Tổng lượt truy cập6,601,238
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây