Tuyên phi Đặng Thị Huệ - người đẹp chịu nhiều hàm oan

Thứ ba - 27/03/2018 12:47
Tượng thờ tuyên phi Đặng Thị Huệ trước cửa hang Thánh Hóa trên núi Sài sơn - Quốc Oai - Hà Nội
Mặc dù đã viết bài về Tuyên phi Đặng Thị Huệ, với mong muốn bày tỏ quan điểm của cá nhân về người phụ nữ còn đầy oan khốc này và có nhã ý đi tìm dấu tích về người phụ nữ xinh đẹp nhưng mệnh yểu này nhiều lần trong dân gian nhưng vẫn không thấy. Thật may mắn khi trên đường đi tìm dấu tích của bà chúa Tây Năng , tôi lại thấy tượng bà chúa Chè được tạc bằng đá xanh thờ phụng ngay tại cửa hang thánh hóa chùa Thầy. Tại đây dân gian vẫn gọi nàng với cái tên thân thương là Bà Chúa Chè ( tương truyền khi còn sống người đẹp phủ chúa rất thích dùng trà xanh - món nước uống dân gian).  Nhưng vẫn chưa rõ tại sao nàng lại được thờ trên cửa hang Thánh hóa chứ lại không phải ở quê hương Kinh Bắc, hay trong xứ Thanh nơi có lăng tẩm của chúa Trịnh Sâm chồng nàng. Phải chăng người dân Sài Sơn có ân nghĩa gì đây với bà chúa chè. Hỏi nhanh qua mấy người thuyết minh thì được biết đương thời khi nàng còn sống, chính Tuyên Phi đã cúng dường khá nhiều tiền bạc để giúp nhân dân làng Sài sơn trùng tu tôn tạo chùa Thầy. Vì lẽ đó dân làng nhớ ơn và tạc tượng nàng để thờ.
Tượng không to lớn, khiêm nhường nhỏ bé nhưng quả thực là được bàn tay nghệ nhân chăm chút tới từng chi tiết. Vẫn nét mặt xinh đẹp đài các, bàn tay búp măng vòng phía trước, nếp xiêm y chảy dài mềm mại cho thấy dáng vẻ quý phải của một người phụ nữ từng một thời làm khuynh đảo phủ chúa, bên cạnh khuôn mặt còn được khắc mấy hàng chữ nho. Điều rất thù vị ở chỗ là tượng Tuyên Phi lại đặt ngang cùng tượng bà chúa Mường bằng đá trắng. Hai bà chúa, một Việt, một Mường. Không biết  dân gian vô tình hay hữu ý mà làm thành cặp Việt - Mường ngay tại cửa hang Thánh Hóa.
pho tượng bằng đá xanh tạc Tuyên Phi Đặng Thị Huệ
pho tượng bằng đá xanh tạc Tuyên Phi Đặng Thị Huệ
 
  • Tuyên Phi Đặng Thị Huệ - Người đẹp ngậm nhiều hàm oan
Cho đến nay vẫn chưa có tài liệu nào nói rõ Đặng Thị Huệ sinh năm nào, chỉ biết người đẹp Kinh Bắc mất năm 1783. Đặng Thị Huệ xuất thân là cô gái con nhà Nho ở làng Phù Đổng tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc gia lâm ngoại thành Hà Nội). Nhân dân quê hương nàng lại gọi tên nàng thân thương: Bà Chúa Chè.
Sinh ra trong một gia đình nhà nho[1], Huệ vốn dĩ thông minh, lại được cha cho theo đòi nghiên bút nên người đẹp làng Phù Đổng đã sớm bộc lộ bản lĩnh và óc quan sát cũng như biết rất rõ ưu thế của mình. Đây là những cơ sở đầu tiên khiến tự thân Huệ hoặc gia đình và người cha có chữ nghĩa vạch ra cho nàng một chiến lược sống và con đường tiến thân xứng đáng là tìm đến chốn lầu son gác tía chốn Kinh kì.
Rất có thể thông qua các mối quan hệ của gia đình, Đặng Thị Huệ đã được giới thiệu vào trong vương phủ của chúa Trịnh với vai trò thị tỳ cốt để có cơ hội diện kiến đấng cửu trùng. Thay đổi đầu tiên trong đời nàng chính là việc trở thành nữ tỳ của Tiệp dư Trần Thị Vịnh. Khi cơ hội đến với sự thông minh của mình Huệ đã chiến thắng ngay từ lần đầu tiên xuất hiện. Và chỉ một lần duy nhất Huệ được lệnh bưng một khay hoa đến nơi chúa ngồi nàng đã làm xiêu lòng quân tử. Điều này xác nhận lại nhận xét của người xưa: Đặng Thị Huệ thực sự là một giai nhân tuyệt sắc, khiến chúa nhìn là mê ngay. Hoàng Lê Nhất thống chí quyển 1 chép: “Một hôm tiệp dư Trần Thị Vịnh sai nữ tỳ Đặng Thị Huệ bưng một khay hoa đến trước nơi chúa ngồi, Ả họ Đặng này quê ở làng Phủ Đổng, mắt phượng mày ngài vẻ người mười phần xinh đẹp. Chúa nom thấy rất bằng lòng, bèn tư thông với ả.”[2]. Về sau khi sinh được con trai, nàng được phong lên hàng phi với vị trí Tuyên Phi. Vị trí của Tuyên Phi ngày càng lớn trong lòng chúa cũng như trong triều thần, nàng không chỉ bỏ xa các Phi tử còn lại mà còn trở thành người tri kỷ bên chúa và luôn được cùng Trịnh Sâm cận kề nơi màn trướng cũng như việc quân cơ. Với vị trí này Tuyên Phi đã trở thành cái gai trong mắt của không ít các cựu thần cố chấp với tư duy gia trưởng và thuộc về phe phái Ngọc Hoan và các cung tần khác. Sống trong phủ chúa xa hoa nhưng Tuyên Phi và con nhỏ 3 tuổi cũng phải đối mặt với rất nhiều âm mưu và thủ đoạn muốn hãm hại. Ngay cả khi Trịnh Sâm còn sống, nàng cũng gặp không ít khó khăn cũng như sự gièm pha bôi nhọ, thậm chí còn là cái đích cần phải loại bỏ của phe phái Ngọc Hoan và Trịnh Tông.  Sau sự biến Trịnh Tông mưu phản, mẹ con Đặng Thị Huệ trở thành ứng cử viên số một trong vai trò mẫu nghi thiên hạ. Tháng 9 năm Nhâm Dần (1782), Trịnh Sâm mất, Trịnh Cán được nối ngôi chúa, hiệu là Điện Đô Vương. Tuyên Phi trở thành Vương Thái phi. Mặc dù đã đăng cơ làm chúa nhưng Điện đô Vương còn quá nhỏ ( 4 tuổi) mọi chuyện sắp đặt trong triều đều do Tuyên Phi và A phó Huy Quận Công Hoàng Đình Bảo. Tất yếu lúc này nàng phải học cách tự vệ và bảo vệ con thơ ở vị trí ngôi cao bền vững cũng như quản trị quốc gia với bao mối lo từ trong phủ chúa lẫn ngoài cung vua. Được sự giúp rập của Huy quận Công, với trí tuệ sắc xảo, và khả năng nhìn nhận con người của mình, Đặng Thị Huệ đã bồi đắp cho thế lực của mình khá vững vàng, nhưng khi Trịnh Sâm mất thì thực sự Đặng Thị Huệ mất hẳn chỗ dựa. Bắt đầu từ đây nàng phải đối phó với rất nhiều nguy cơ. Sử cũ cho biết đây cũng là thời gian rất khó khăn trong ngôi vị của Tuyên Phi Đặng Thị Huệ. Trong phủ chúa thì các phe phái vẫn chưa dứt, ngoài triều nội thì dân gian đặt vè vu cho nàng câu kết tình ái với Huy Quận Công, con nàng lại quá nhỏ và bệnh tật thường xuyên; Cấm vệ quân gốc xứ Thanh thì từ chỗ là ưu binh đang dần thoái hóa thành kiêu binh. Thân gái dặm trường, đường xa vạn dặm, lại trong thế quyền lực bị phân tán, vô cùng nhiều mối hiểm nguy, nỗi lo muôn ngàn khó có thể một mình xoay chuyển. Dù tài năng tới đâu một mình Quận Huy cũng khó bề xoay sở. Kết cục loạn kiêu binh năm 1873 (chỉ sau khi Trịnh Sâm chết 1 tháng), Trịnh Tông được đám kiêu binh ô hợp rước lên ngôi chúa, Trịnh Cán bị phế truất xuống làm Vương đệ và giáng làm Cung Quốc Công, một thời gian sau thì qua đời. Tuyên Phi bị truất ngôi và bị Dương Thái Hậu trả thù hành hạ hết sức dã man. Về sau nàng bị giáng xuống làm dân thường và đưa về trông coi lăng tẩm của Trịnh Sâm ở Thanh Hóa. Chính tại đây, Huệ ngày đêm than khóc và đã tự vẫn chết theo chồng trong ngày đại kỵ chúa Trịnh Sâm. Mộ nàng được táng cách Vọng lăng (lăng Trịnh Sâm) một dặm.
Cuộc đời của tuyên phi Đặng Thị Huệ cho đến nay còn rất ít tư liệu viết về nàng ngoài bộ Hoàng Lê Nhất Thống chí là chép nhiều hơn cả nhưng với tư duy phong kiến, những dòng chép về Đặng Thị Huệ vẫn còn khá nhiều dấu ấn định kiến của tư duy coi thường phụ nữ, nhất là phụ nữ nhờ nhan sắc và tài năng mà có được ngôi cao. Mặc dù ghi chép khá nhiều chi tiết về Đặng Thị Huệ và cục diện nhà chúa thời nàng làm chính cung, song cách nhìn phiến diện về người đẹp vẫn cho thấy không có sự khách quan trong nhìn nhận và đánh giá. Với tư liệu này Đặng Thị Huệ hiện lên như một phụ nữ đẹp và dùng sắc đẹp của mình để làm khuynh đảo phủ chúa, mưu thán đoạt ngôi chính cung của Ngọc Hoan và tham gia vào phế truất thế tử Trịnh Tông để đoạt ngôi chúa cho con mình. Nhiều tác giả lại cho rằng Huệ chính là nguồn cơn khiến chúa bỏ bê không quan tâm tới vợ chính Thất là Dương Ngọc Hoan; phế truất ngôi thế tử của Trịnh Tông và đưa Trịnh Cán con nàng làm Thế tử; rồi sự lộng hành ngang ngược của  cậu em trai là Đặng Mậu Lân và mối lương duyên bất hạnh quận chúa Ngọc Hoa… thì mọi nguyên do đều đổ dồn về Đặng Thị Huệ là dung túng…Thậm chí trong dân gian kinh thành lúc đó còn cho rằng để củng cố vị trí của mình sau khi đã hiển vinh nhờ con, nàng trở thành chính cung buông rèm điều hành chính sự có sự giúp rập của Quận Công Hoàng Đình Bảo thì người đẹp lại thêm một chuyện thị phi nữa là cặp kè với Huy Quận. Sự nghi ngờ trong triều nội dẫn đến tai vách mạch rừng lan ra chốn dân gian thành Thăng Long và đã đặt thành vè cho trẻ con hát :
 “Trăm quan có mắt như mờ
Để cho Huy quận vào rờ chính cung
Đục cùn thì giữ lấy tông
 Đục long cán gãy còn mong nỗi gì”.
Nói chung trong quan niệm của một vài thế lực trong phủ chúa lúc bấy giờ, cũng như các sử gia đương thời, Tuyên Phi giống như một tội đồ. Cuộc sống đầy đọa oan ức của nàng chốn thâm cung bí hiểm sau loạn kiêu binh do bị Ngọc Hoan trả thù  không được mấy người thương xót. Các văn sĩ, sử gia, nhà văn hóa dân gian, nhà biên kịch… đời sau cũng không mấy người lật lại suy xét khách quan cho người đẹp này. Mà hầu hết căn cứ vào một vài nhận định của Hoàng Lê Nhất Thống chí và tư liệu dân gian kinh thành để viết về Đặng Thị Huệ, hoặc dựng lại chân dung nàng trong các vở chính kịch về thời chúa Trịnh như “Đêm Hội Long trì” nhưng đa phần vẫn nghiêng về chê trách nàng đã dùng sắc đẹp để làm chúa mê mẩn từ đó tìm mọi cách kéo bè kết đảng thao túng quyền lực cho mình và thanh toán các phe phái đối lập. Cũng là người đẹp khuynh quốc khuynh thành nhưng cuộc đời và hậu thế suy xét về Tuyên phi Đặng Thị Huệ khác hẳn với Dương Thái Hậu, Nguyên Phi Ỷ Lan, hay chí ít dù chính sử lãng quên thì các văn sĩ đời sau vẫn ngậm ngùi bày tỏ thay cho Huyền Trân  hoặc An Tư công chúa, còn Đặng Thị Huệ, số phận cũng như vai trò của nàng trong phủ chúa thế kỷ XVII chưa bao giờ được lật lại, suy xét một cách khách quan.
Vậy sự thực về những năm tháng sống trong cung cấm của Đặng Thị Huệ là đâu, nàng có thật sự là một “yêu tinh” chốn hậu cung và đầy mình tội lỗi như vậy không? hay cũng chỉ là một cách nhìn thời đại về sự bất lực của các đấng nam nhi cầm quyền để rồi đổ lỗi lên đầu các giai nhân cố tình làm khuynh quốc?.
Cũng là  một giai nhân cùng quê hương với Ỷ Lan nhưng nếu như taọ lập sự nghiệp của mình trong thời buổi thái bình thịnh trị như Ỷ Lan thì lại được rất nhiều người đời sau bênh vực, còn người đẹp Làng Phù Đổng thì cho đến nay vẫn bị đóng đinh bởi khá nhiều điều tiếng. Thực sự Đặng Thị Huệ có tội lỗi đầy mình không hay thực sự người đẹp cũng chỉ là một nạn nhân của những tranh quyền đoạt tước và sống trong thời buổi của những tao loạn tranh giành quyền lực mà nàng cũng buộc phải làm nhiều chuyện và rồi không kiểm soát được tình thế. Xuất phát từ những cứ liệu lịch sử, và cách nhìn thời đại, trong tài liệu này chúng tôi cố gắng khách quan nhất trong khi viết về tuyệt thế giai nhân này.
Thứ nhất phải khẳng định Đặng Thị Huệ là một tuyệt thế giai nhân nhưng rất sắc sảo, tuy nhiên khi đọc tài liệu mà Hoàng Lê nhất Thống Chí viết về nàng, các tác giả đều dùng từ “ả”. Về mặt ngữ âm, từ “ ả”, hoặc “thị” hay được sử dụng thời hiện đại để chỉ những phụ nữ không có đức hạnh. Có lẽ xuất phát từ đây mà ngay từ khi tiếp cận với những dòng tư liệu về Tuyên Phi Đặng Thị Huệ mọi người đã có ngay một định kiến không tốt đẹp về nàng. Cũng cần nói thêm rằng trong ngôn ngữ của người Việt xưa từ “thị” là khái niệm lót đi cùng với tên dùng để chỉ phụ nữ nói chung. Bà Huyện Thanh quan khi phê đơn viết “phó cho con Nguyễn Thị Đào. Sau này từ “thị” vẫn được dùng làm tên lót của con gái. Về sau từ “thị” dần biến ngữ nghĩa thành miệt thị như “thị A, thị B” để chỉ những phụ nữ không có phẩm hạnh hay tội đồ. Cung như vậy từ “ả” xưa kia là từ thường để dùng chỉ người phụ nữ đẹp chứ không mang ý nghĩa miệt thị: ả đào; hát ả đào (người phụ nữ đẹp làm nghề hát ca). Dân gian người Việt vẫn có câu “làm ả thì ngả mặt lên” tức là người phụ nữ đẹp thì có quyền ngẩng cao đầu, có quyền khẳng định gía trị của cái đẹp và đương nhiên là có nhiều ưu thế. Việc dùng sắc đẹp để tự tiến cử mình cũng là chuyện thường của các hoa khôi, trong cung vua, phủ chúa xưa cũng như nay có hiếm gì các bậc nữ lưu như vậy. Không phải Ỷ Lan cũng đã có cách xuất hiện trước mặt vua Lý Thánh Tông một cách độc đáo và gây ấn tượng; và ngay cả Ngọc Hoan (là phi tử của Trịnh Sâm, mẹ đích của Trịnh Tông) cũng  nhờ chị gái mình là cung tần của Ân vương Trịnh Doanh tiến cử nên bà mới trở thành phi tử của Thịnh Vương Trịnh Sâm, điều này còn thua Tuyên phi Đặng Thị Huệ, bởi một lẽ Tuyên phi tự mình tiến cử chứ không cần nhờ vả tới ai.
Điều thứ hai phải khẳng định ngay rằng Đặng Thị Huệ không phải là nguồn cơn khiến Ngọc Hoan bị thất sủng bởi Ngọc Hoan chưa bao giờ được chúa Trịnh Sâm sủng ái thì làm sao có chuyện bỏ bê. Riêng ở chi tiết này khi viết “chúa Trịnh Sâm quá yêu Đặng Thị Huệ đã bỏ rơi người vợ cả Dương Ngọc Hoan”[3] của tác giả Vũ Ngọc Khánh chúng tôi cho rằng ông đã không tra xét kỹ càng. Hoàng Lê Nhất Thống Chí khi viết về Dương Ngọc Hoan (NxbVh. trang 14) cho biết chi tiết “ nhờ chị, thái phi (Dương Ngọc Hoan) được kén vào làm cung tần của Thịnh Vương (tức Trịnh Sâm), từ khi vào cung, nàng vẫn ngày đêm sống cô quạnh” đã cho thấy rất rõ nhờ thần thế để bước vào phủ chúa nhưng chắc chắn Ngọc Hoan chưa bao giờ được chúa để mắt đến, việc nhận nàng vào cung có lẽ cũng chỉ là một sự bắt buộc, hoặc khó từ chối do các quan hệ  phức tạp nơi phủ chúa.
Điều thứ ba phải khẳng định là Đặng Thị Huệ ngoài khả năng quyến rũ bởi sự hấp dẫn của hình thể, nàng cũng là người phụ nữ khá thông minh và đặc biệt có tài trong việc quân cơ trọng sự. Chắc chắn ban đầu có thể do chúa yêu quý mà cho tham dự, nhưng khi tham dự Tuyên Phi đã bộc lộ rõ tài năng và trí tuệ sắc xảo của mình trong tham vấn triều chính. Ắt hẳn nhiều lần tư vấn của nàng không chỉ đúng ý chúa mà còn thể hiện rõ khả năng nắm bắt tình thế và xoay chuyển tình hình. Chi tiết Đặng Thị Huệ tư vấn cho chúa Trịnh Sâm gạt đi các dị nghị về Quận Việp mà dung nạp Quận Huy Hoàng Đình Bảo (là con rể của Quận Việp); lại cử Huy ra trấn thủ  xứ Nghệ An để giữ gìn bờ cõi phía Nam. Khi biết quận Huy bị gièm pha khiến chúa nghi ngờ, chính Tuyên Phi đã giúp Huy thoát được nạn lớn. Sau đó lại dung nạp Huy quay trở lại kinh thành và mặc dù rất có thể Tuyên Phi biết Quận Huy từng ra mắt Trịnh Tông với “một trăm lạng vàng và mười tấm đoạn Nam Kinh làm lễ yết kiến”[4] thất bại nhưng Tuyên Phi vẫn dùng Hoàng Đình Bảo khi vị tướng trận mạc này biết tìm đến nàng. Vấn đề không chỉ là căn nhà cũ của quận Việp được sửa sang để dâng làm tư dinh cho vương tử Cán mà thực sự Tuyên Phi rất biết nhìn xa trông rộng và nhìn thấu rõ tài năng của Quận Huy và biết bỏ đi cái nhỏ để thâu nạp Quận Huy vào thế lực của mình. Điều này cho thấy thực sự Tuyên phi là người có tài trong nhìn nhận và dùng người, cho dù mục đích đó là gì.
Đây là lý do Huệ trở thành phi tử đứng đầu của Chúa và vượt xa cả các hàng cung phi còn lại. Trên thực tế chính Hoàng Lê nhất Thống Chí cho biết chúa Trịnh lúc bấy giờ là Thịnh Vương: “là người cứng rắn, thông minh quyết đoán, sáng suốt, trí tuệ hơn người có đủ tài về văn lẫn võ, đã xem khắp kinh sử, biết làm văn làm thơ. Sau khi lên ngôi chúa từ bỏ hết kỷ cương trong triều đến chính trị trong nước, hết thảy đều được sửa đổi; bao nhiêu tướng giặc, đảng nghịch đều lần lượt bị dẹp tan. Chúa có cái chí muốn làm bá chủ, nào diệt giặc Trấn Ninh, nào phá bọn Công Chất, quân nhà chúa đã đến, không chỗ nào là không thắng, bốn phương yên ổn, kho đụn đầy đủ…”[5] . Những thông tin này cho thấy rõ ràng chúa Trịnh Sâm cũng là một tay anh hùng luôn có chí khí và óc suy xét chứ không chỉ là kẻ tiếm ngôi xoàng xĩnh chỉ biết ăn chơi xa sỉ. Bên cạnh đó việc thay đổi hết kỷ cương, triều chính cho thấy đây là một vị lãnh đạo hoàn toàn có chính kiến và không dễ bề thao túng. Một người đàn ông như vậy mà khi đem mọi việc bàn bạc với một người phụ nữ và luôn cho người phụ nữ đó can dự vào việc quản trị đất nước chứng tỏ người phụ nữ đó ắt không thường. Từ căn cứ này có thể khẳng định rằng Tuyên Phi cũng là một phụ nữ thuộc diện “đàn bà dễ có mấy tay”. Do đó không thể nói rằng Đặng Thị Huệ chỉ dùng nhan sắc của mình để thao túng Trịnh Sâm. Sự thực về việc Đặng Thị Huệ được nhà chúa yêu quý, nói gì cũng nghe và hễ có việc gì là chúa cũng bàn với nàng, Hoàng Lê Nhất thống chí chép rất chi tiết: “Từ đó Thị Huệ ngày càng được nhà chúa yêu quý, ả nói gì chúa cũng nghe và hễ có việc gì là chúa cũng bàn với ả. Rồi ả được ở chung một nơi với chúa, y như cặp vợ chồng nhà thường dân. Xe kiệu, quần áo của ả cũng đều được sắm sửa hệt như đồ dùng của chúa”[6]. Thông tin này lại càng khẳng định ngoài việc được chúa tin yêu, Tuyên phi còn rất được chúa Trịnh Sâm tôn trọng, coi trọng. Điều này đã thấy rõ ngay cả khi Tuyên Phi khóc mà ném viên ngọc dạ quang xuống đất và nói “sao chúa nỡ trọng của khinh người như vậy” đã khiến chúa phải chịu nhún và điều chỉnh hành vi. Việc chúa tìm “nhiều cách dỗ dành cho nàng vui lòng” để làm lành quan hệ giữa hai người càng cho thấy rõ ràng Tuyên Phi có một vị trí không nhỏ trong tâm trí Trịnh Sâm. Chỉ có tình yêu, sự tôn trọng người phụ nữ mình yêu mới khiến người đàn ông như Trịnh Sâm hết lòng yêu mến và hy vọng lớn lao về đứa con nhỏ Trịnh Cán – là kết quả của tình yêu ấy.
Điều này đã được minh chứng bằng hành vi sau khi chúa nhỏ chào đời (năm 1777, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 38) chúa Trịnh Sâm đã tự lấy tên mình hồi nhỏ để đặt cho con. Sự kiện chúa lấy hai câu “sơn xuyên anh dục, hà hải tú chung” (khí thiêng sông núi tụ lại, sự tốt đẹp của hồ biển đúc nên) vừa để chúc phúc cho con vừa làm đề thi hương năm ấy cũng chính là thể hiện ước mong, kì vọng về người con và đồng thời cũng muốn dùng tài của các văn sĩ trong nước để ngợi ca mối tình của mình và chúc phúc cho con trai. Phải một người chồng vô cùng hạnh phúc, người cha yêu và kỳ vọng về con rất lớn mới có thể làm những việc như vậy: Tạo ra dấu ấn lịch sử để hun đúc chí khí của con trai mình!. Thơm lây nhờ con, sinh được hoàng nam, Đặng Thị Huệ được chúa phong làm Tuyên Phi âu cũng là lẽ thường.
Không tỏ ra phụ lòng, cốt cách của vương tử Cán dưới sự dạy dỗ của các A bảo do chúa chỉ định và sự chăm sóc, hy vọng của Tuyên Phi đã tỏ ra rất thông minh dĩnh ngộ và có cốt cách của bậc đế vương. Sách cũ chép “lúc vương tử Cán đầy tuổi, tướng mạo khôi ngô, đẫy đà khác hẳn người thường. Đến khi biết nói, vương tử Cán đối đáp gãy gọn, cử chỉ không khác gì người lớn. Mỗi khi các quan văn võ vào thăm vương tử tiếp đón với dáng bộ nghiêm chỉnh. Có người cách hàng năm mới gặp vương tử vẫn nhớ rõ họ tên kể lai chuyện cũ vanh vách. Chúa sai quan từ hàn lâm viện làm bài tụng mười sáu chữ để viên A bảo dạy truyền miệng cho vương tử. Vương tử chỉ nghe qua một lượt là đọc thuộc. Thấy vậy chúa càng quý vương tử bội phần”[7].
Tuy nhiên, cũng tài liệu này có dòng “cũng do đó, Thị Huệ mới ngầm có ý muốn cướp ngôi Thế tử” và người đời sau cũng cứ bám vào chi tiết này mà đổ diệt cho Thị Huệ tội cướp ngôi Thế tử cho con và tìm cách hãm hại Trịnh Tông (lúc đó chưa ở ngôi Thế tử) e rằng chưa đủ cứ liệu thoả đáng.
          Rất tiếc sau này nhiều tác giả thời nay khi viết về Đặng Thị Huệ cũng không tra xét đầy đủ mọi nguyên do nên khi viết về Tuyên phi Đặng Thị Huệ vẫn cứ một cách tư duy định kiến rằng người đẹp xứ Bắc ỷ thế mình xinh đẹp được chúa yêu chiều đã làm khuynh đảo triều đình: “Chúa Trịnh Sâm vì quá yêu Đặng Thị Huệ đã bỏ rơi người vợ cả Dương Ngọc Hoan, ngay cả Trịnh Tông, con trai do Ngọc Hoan sinh ra đến tuổi vẫn không được lập làm Thế Tử”[8]; từ điển Wipkia mở cũng viết về bà như sau: “Kể từ đó, một mặt bà bí mật sai thuộc hạ thân tín, sớm tối thêu dệt đủ mọi chuyện xấu vu cho Trịnh Khải; mặt khác, bà liên kết với Huy Quận công Hoàng Đình Bảo để cùng mưu sự”.
Cứ cho rằng vì được yêu quý cả mẹ và con, Tuyên Phi ngầm có ý muốn ngôi Thế tử về con mình thì điều đó cũng là lẽ thường của tất cả bao bà mẹ yêu con, nhất là khi thấy ngôi vị Thế tử chưa được định. Nhưng từ việc có những suy nghĩ như vậy đến khi biến thành hiện thực là cả một quá trình chứ không hề đơn giản, nhất là trong môi trường luôn có tranh giành quyền lực chốn hậu cung. Thực sự Tuyên phi có là nguồn cơn của mọi chuyện thì cũng cần phải khách quan với mọi thông tin của sử cũ khi viết về Trịnh Tông người anh cùng cha khác mẹ của Trịnh Cán.
 Thế tử Trịnh Tông còn có tên khác là Khải, là con trai của chúa Trịnh Sâm và phi tần Dương Ngọc Hoan. Nhưng việc Trịnh Tông ra đời hoàn toàn do âm mưu của mẹ chứ không phải là kết quả của tình yêu.  Như đã biết mặc dù đã nhờ chị gái mà Ngọc Hoan trở thành phi tử nhưng Ngọc Hoan không hề được Trịnh sâm yêu quý: “từ khi vào cung, nàng vẫn ngày đêm sống cô quạnh. Bỗng một đêm nàng nằm mơ thấy vị thần đem cho tấm đoạn vẽ đầu rồng” và đem việc này chia sẻ với vị quan hầu cận chuyện màn trướng của chúa là Khê Trung Hầu… “Hôm sau, chúa cho vời cung tần Ngọc Khoan vào hầu, Khê Trung Hầu đã cố ý giả làm nghe lầm đưa ngay thái phi Ngọc Hoan đến. Thấy nàng, chúa có vẻ không thích, nhưng đã chót gọi đến, không nỡ đuổi ra. Sau đó chúa gọi Khê Trung Hầu vào trách mắng. Khê Trung Hầu cúi đầu tạ tội, đoạn thuật rõ đầu đuôi chuyện thái phi nằm mơ cho chúa nghe. Chúa cũng nín lặng không nói sao cả”[9] sau đêm đó Ngọc Hoan có mang sinh ra Trịnh Tông.
Các thông tin này cho thấy cho dù có khách quan đến mấy thì vẫn phải khẳng định rằng Ngọc Hoan đã dùng mưu mẹo để được tiếp cận với chúa. Câu chuyện giấc mơ cũng chỉ là huyễn hặc, thậm chí là một thủ đoạn chính trị khá phổ biến thời xưa nhằm tôn vinh vị trí của mình bằng cách mượn oai thần quyền. Đương nhiên, việc Ngọc Hoan  mua chuộc vị quan Khê Trung Hầu để ông này cố tình đánh tráo âm “Khoan” thành “Hoan” để đưa nàng vào hầu chúa cũng là một thủ đoạn chính trị. Nếu không phải vì kế hoạch bằng mọi cách phải nắm giữ quyền lực nơi phủ chúa, liệu Ngọc Hoan có bằng mọi cách để tiếp cận Trịnh Sâm hay không, việc có con trong duy nhất một lần ân ái với chúa chắc chắn cũng là một khâu trong cả một kịch bản hoàn thiện đến từng chi tiết nhỏ của nàng và viên hoạn quan.  Sự ra đời của Trịnh Tông là một âm mưu của Ngọc Hoan chứ không phải là kết quả của một tình yêu thực sự, ở điểm này Tông khác hẳn Cán. Điều này cũng cho thấy Thái Phi Ngọc Hoan về tư cách đạo đức cũng không có gì là cao quý hơn Tuyên phi Đặng Thị Huệ, thậm chí còn là người rất có âm mưu chính trị trong việc bằng mọi cách để giữ vị trí ngôi cao nhất trong hậu cung. Điều này khiến Trịnh Sâm không hề vui vẻ và hài lòng, nhưng vì cũng là con mình nên ông để hai mẹ con yên ổn, nhưng trong thâm tâm Trịnh Sâm không hề có ý muốn lập Tông làm Thế tử. Chi tiết ngày sinh Trịnh Tông, “chúa có ý không vui, các quan văn võ vào chúc mừng, chúa lấy cớ rằng đứa con ấy không phải là vợ cả đẻ ra, từ chối không nhận lời mừng”[10] đã cho biết rất rõ về tình cảm của Trịnh Sâm với đứa con ra đời ngoài ý muốn, vì vậy ngay cả khi “Thế tử Tông đã lớn, dung mạo rất khôi ngô mà chúa cũng chẳng yêu chiều gì mấy”[11].
Câu chuyện không chỉ dừng ở đó đến khi Trịnh Tông 12 tuổi theo lẽ thường phải ra ở Đông cung nhưng chúa vẫn không hề đả động đến chuyện đó mà còn bắt Thế tử phải “đến ở nhà riêng của quan a bảo là Hân Quận Công (Nguyễn Đĩnh). Như vậy ngôi Đông cung vẫn bỏ trống, như có ý chờ người khác… đến năm Trịnh Tông 18 tuổi  theo lệ cũ Thế Tử đáng được mở phủ riêng, nhưng chúa cũng không hề đả động đến, như thế là người nối ngôi vẫn chưa định”[12]. Điều này cho thấy mặc dù Trịnh Tông được sinh ra trong một âm mưu nối ngôi và giữ quyền lực và cố tình đưa Trịnh Sâm vào thế đã rồi nhưng trên thực tế chúa Trịnh Sâm không hề có ý lập Trịnh Tông làm Thế Tử. Vì vậy không thể nói rằng Tuyên Phi Đặng Thị Huệ đã ỷ thế được yêu chiều mà tranh đoạt ngôi Thế tử cho con mình. Trong khi  đó  “từ khi vương tử Cán ra đời, Thế tử Tông có ý rất tức bực, chỉ sợ mình không được lập làm chúa. Thế tử cùng với bọn gia thần là mấy tên hầu Thế Thọ, Thẩm thọ…nho sinh Đàm Xuân Thu và tên xuất thân tạp lưu Vĩnh Vũ ngày đêm bàn mưu, lo lắng không biết nên làm thế nào”[13] khi bệnh cũ của Chúa tái phát nguy kịch “ bọn tôi tớ liền khuyên Thế tử ngấm ngầm sắm sửa binh khí, chiêu mộ dũng sĩ, một mai trong cung xảy ra chuyện chẳng lành thì cứ việc đóng chặt cổng thành, giết quận Huy và bắt giữ hai mẹ con Thị Huệ khiến vương tử Cán không thể lên ngôi chúa. Mặt khác báo cho hai trấn Tây, Bắc đem quân vào kinh bắt ép các đại thần để dựng Thế tử lên ngôi chúa.  Thế tử nghe theo và phao lên rằng mình sắp được lệnh đem quân vào đánh miền nam, rồi lại sai người báo ngầm cho Khê Trung Hầu (vị hoạn quan đã cố tình dẫn Ngọc Hoan vào hầu chúa), giao một ngàn lạng bạc cho nho sinh Đàm Xuân Thụ để đi phân phát cho bọn tay chân đi mua sắm vũ khí. Tiếp đó Thế tử mật báo cho các viên trấn thủ ở hai trấn Tây, Bắc, chiêu tập dũng sĩ”[14].
 Như vậy là trong khi Đặng Thị Huệ chưa hề có những động thái gì thì Trịnh tông đã chuẩn bị đầy đủ các phương án và lên kế hoạch bắt mẹ con nàng. Không may cho Trịnh Tông, Chúa Trịnh Sâm khỏi bệnh và mọi việc đã bại lộ. Sự kiện đó diễn ra vào tháng tám năm canh tý (1780)
 Sự việc đã được giao cho Nghĩa Phái Hầu Lê Quý Đôn tra xét và làm rõ sự tình. Bè đảng của Trịnh Tông có ba đại thần đều phải mất mạng: Khê Trung hầu, Tuân Sinh Hầu (Nguyễn Khắc Tuân), Nguyễn Quốc Tuấn (thuộc hạ của Khắc Tuân) bị án chém, riêng “Trịnh Tông bị truất xuống làm con út, trọn đời giữ đạo làm tôi” và bị quản thúc ngặt trong một ngôi nhà ba gian trong phủ chúa. Thiết tưởng sự việc đã rõ ràng như vậy, trong xã hội cũ tội mưu phản nghịch là tội khi quân, nhưng chúa đã nể tình ruột thịt mà giáng Tông xuống làm con út trọn đời giữ đạo làm tôi, cũng là nhân nhượng. Sự việc đã quá rõ ràng mình làm thân chịu, ở đây tư liệu lịch sử của dòng họ Ngô Thì gần như không có cảm tình với Tuyên Phi Đặng Thị Huệ nhưng những tư liệu này cho thấy việc Trịnh Tông bị phế truất không hề có liên quan gì đến Đặng Thị Huệ. Để Trịnh Tông và Ngọc Hoan còn sống trong vương phủ đây cũng là điều cho thấy so với Ỷ Lan khi thanh toán các phe phái đối lập Tuyên phi vẫn chưa quyết liệt bằng.
Bên cạnh đó sử cũ và một số tác giả đều có ý phê phán Tuyên Phi ra sức kéo bè kết đảng với Quận Huy Hoàng Đình Bảo để mưu thán đoạt ngôi chúa. Vậy sự thực nhân cách Quận Huy như thế nào, Hoàng Lê Nhất Thống Chí ghi chép rất rõ rằng vị tướng này lại là người đã từng được chúa giao cho thống lĩnh quân đội của Quận Việp vào “đóng ở trấn Nghệ An ra sức tiêu diệt trộm cướp, cấm đổi tiền, trấn áp cường hào, ngăn chặn việc kiện cáo, làm cho trong hạt rất thịnh vượng. Huy lại thu dùng những kẻ anh tài, đặt ra làm nhiều chức liêu thuộc…”[15] điều này cho thấy thực sự Quận Huy cũng là một tay hảo hán và có thực tài, trong khi đó người giúp rập dưới trướng của Trịnh Tông lại là “mấy tên hầu” và những kẻ “xuất thân tạp lưu” như Vĩnh Vũ. Công bằng mà nói vậy thì nhân cách của ai mới đáng phải nhìn nhận lại đây?. Liệu một người như Ngọc Hoan, Trịnh Tông với những hành vi mà hai mẹ con họ đã làm để thâu tóm quyền lực trong phủ chúa ngay cả khi Trịnh Sâm còn trị vì, với khả năng suy xét của Trịnh Sâm thì dù có không thiên vị Tuyên Phi, liệu những người này có đáng để lập làm Thế tử nối ngôi chúa và Ngọc Hoan có đáng để trở thành mẫu nghi thiên hạ hay không chắc ai trong chúng ta thời này đều biết rõ câu trả lời.
Sự kiện khi Trịnh Sâm lập Vương Tử Cán làm thế tử và Thánh Mẫu thái tôn (mẹ Trịnh Sâm) “ can ngăn và có ý muôn phục hồi ngôi vị cho Trịnh Tông, Chúa Trịnh Sâm đã rất minh bạch trả lời: “tên Tông với tên Cán đối với mẹ là cháu, nhưng đối với tôi là con, người xưa đã nói biết con chẳng ai bằng cha. Tôi cũng chưa đến nỗi mê lẫn, vả chăng triều đình bàn bạc chung như thế chứ cũng chẳng phải vì tôi yêu đứa con nhỏ mà bày đặt ra việc này. Mẹ há chẳng biết rõ rồi sao. Nay nếu không sớm định rõ người nối ngôi, bọn tiểu nhân đâm ra dòm nom mong chờ, tôi e tai họa sẽ xảy ra đến lúc nào không biết. Huống hồ ngôi báu của thiên hạ cốt phải giao phó vào tay người xứng đáng. Đã coi tôn xã làm trọng, thì dẫu con đẻ ra cũng không được tư túi; lẽ nào tôi lại dám tư túi với đứa con nhỏ? Nếu như cuối cùng bệnh của Cán không khỏi, thì thà lập Côn quận Công (tức Trịnh Bồng, anh em con chú con bác với Trịnh Sâm), trả lại dòng chính cho nhà bác, chứ không thể nào giao cho cái thằng Tông bất hiếu, để nó làm hỏng cơ nghiệp của tổ tiên”[16].
Như vậy bản thân Dương Ngọc Hoan và Trịnh Tông vốn dĩ đã không phải là người mà Trịnh Sâm có ý coi trọng và cho kế nghiệp. Chưa kể nếu đem so sánh cách hành xử của Tuyên Phi và Dương Ngọc Hoan lại càng cho thấy rõ nhân cách của hai người phụ nữ này. Khi Tông bị phế truất làm con út, trong tài liệu đương thời không thấy ghi điều gì về sự gièm pha xúc xiểm hay thừa cơ mượn gió bẻ măng của Tuyên Phi Đặng Thị Huệ. Mặc dù bị quản thúc nhưng Trịnh Tông vẫn sống an lành và Dương Ngọc Hoan cũng không thấy có chi tiết nào là cho biết bà phải chịu vạ theo con hay bị Tuyên phi nhân cơ hội trả thù. Ngược lại khi Trịnh Tông dùng lũ ô hợp kiêu binh làm phản phế truất Trịnh Cán con nàng thì số phận Tuyên Phi đã bị Ngọc Hoan trả thù hết sức tàn tệ. Nhân chứng đương thời mô tả lại cho Nguyễn Hữu Chỉnh biết như sau:
“ Khi chúa nhỏ bị bỏ, Thái phi (tức Dương Ngọc Hoan) sai người bắt Tuyên Phi đến trước mặt mình, kể tội rồi buộc Tuyên Phi phải lạy tạ. Tuyên Phi không chịu lạy. Thái Phi bèn sau hai thị nữ đứng kèm hai bên, níu tóc Tuyên Phi rập đầu xuống đất. Nhưng Tuyên Phi vẫn nhất định không chịu lạy, mà cũng không nói nửa nhời. Thái phi giận quá, đánh đập một hồi, nhổ nước bọt vào đầu vào mặt rồi đem giam vào nhà Hộ tăng ở vườn sau. Tại đây Tuyên Phi bị làm tình làm tội cực kì khổ sở” [17]. Sự việc này cho thấy Thái Phi Ngọc Hoan thật sự cũng chỉ là người phụ nữ hẹp hòi và đầy đố kị. Nếu không có câu chuyện về đồ thờ cúng ở lăng Thịnh Đức nát mủn thì có lẽ Đặng Thị Huệ đã bị Ngọc Hoan hành hạ tới chết. Những chi tiết này cho thấy nhân cách của Ngọc Hoan cũng đầy rẫy những tỳ vết, bà không chỉ là người phụ nữ đầy âm mưu toan tính với cuộc hôn nhân của mình mà còn là một phụ nữ nhỏ nhen, và cay độc. Một lần nữa càng khẳng định được rằng giữa hai người phụ nữ có con trai để thừa kế ngôi báu lúc bấy giờ là Ngọc Hoan và Đặng Thị Huệ thì sự lựa chọn của Trịnh Sâm là hoàn toàn sáng suốt, chỉ tiếc cơ trời không hợp.  
Trong khi đó thói thường của người phụ nữ có tài năng, được lãnh đạo tin dùng thường ít khi được các đấng mày râu thừa nhận hoặc bị bới móc, dèm pha đố kị; phụ nữ thông minh xinh đẹp được vua yêu, chúa giữ thường bị các phi tần khác ghen ghét ngầm hãm hại thì triều đại nào cũng có. Suy cho cùng Quận Huy, Tuyên Phi Đặng Thị Huệ cũng chỉ là nạn nhân của một lối tư duy kiểu tiểu nông bon chen, chật hẹp chỉ biết đến quyền lợi của cá nhân, xa hơn là dòng họ chứ không biết đặt lợi ích của quốc gia dân tộc lên trên.  Cái khó thanh minh, khó bênh vực cho hai người ở chỗ Tuyên Phi có thể chưa đủ tài năng hay không có đủ thời gian để thi thố tài năng như Ỷ Lan và dưới trướng nàng cũng còn thiếu rất nhiều nhân sĩ có tài giúp rập. Quận Huy mặc dù “đã học được phép dùng binh gia truyền của Quận Việp, được các tướng tá rất sợ phục. Huy lại khéo cắt đặt nhân tài, nên các tay hào kiệt đều vui lòng chịu sai khiến, có công phá được quân định, tiếng tăm mỗi ngày một lẫy lừng”[18] nhưng có lẽ ông thích hợp trong vai trò một tướng dùng binh ngoài trận hơn là trong vai trò một Thái sư biết quản trị nhân sự và xắp xếp chính sự nơi triều nội, vì vậy mặc dù hết lòng giúp rập Đặng Thị Huệ và ấu chúa nhưng không chèo lái nổi chính sự, đó là chưa kể đến tư duy thời đại lúc bấy giờ khi mà các quan hệ sản xuất, quan hệ xã hội theo lối tam cương ngũ thường đã bộc lộ nhiều bất cập. Sẽ khó để có thể so sánh Quận Huy với Lý thường Kiệt, Lý Đạo Thành đã từng phò tá Nguyên Phi Ỷ Lan nhưng thực sự triều chính dưới thời Lý và thời vua Lê - Chúa Trịnh cũng là hai giai đoạn rất khác nhau. Nếu như thời Lý là thời của một triều đại đang rất thịnh trị với thế đi lên, quyền lực tập trung vào một mối. Trong khi đó dưới thời của Đặng Thị Huệ thì các thế lực chính trị ở Đàng ngoài lúc bấy giờ còn đang rất phân tán, lòng người không biết ngả về vua hay theo chúa, nhiều nhân sĩ giỏi giang vẫn khoanh tay đứng nhìn thời thế vần vũ hơn là nhảy vào cuộc để góp phần xoay chuyển tình hình. Đàng trong thì chúa Nguyễn luôn tìm cơ hội để phản công lại Thăng Long. Triều đình nhà Lê tuy là bù nhìn nhưng lại vẫn có vị trí nhất định trong lòng dân chúng Thăng Long và nhiều nhân sĩ ăn lộc vua Lê triều trước; Trịnh Sâm mất sớm, Trịnh Cán lại quá nhỏ, phủ chúa lúc bấy giờ quá nhiều phe phái, mẹ con Trịnh Tông vẫn còn đó, cấm vệ binh xuất thân vùng Thanh – Nghệ có nhiều công lao, được ưu ái thành ra kiêu binh và nhờn phép nước thành thử ra Đặng Thị Huệ đã thất bại trong sự nghiệp chính trị của mình, mặc dù bước khởi đầu đã đi đúng đường và khá suôn xẻ.
Bên cạnh đó nhân cách, đạo đức và những hành vi càn rỡ ngông ngênh của Đăng mậu Lân (em trai ruột của Tuyên Phi) nếu đúng như ghi chép của dòng họ Ngô Gia Văn Phái thì thực sự đây là điểm khá bất lợi cho nàng. Việc Đặng Mậu Lân ỷ vào thế chị được sủng ái mà gây nhiều chuyện càn rỡ vô đạo, thì cũng không phải là chuyện hiếm xưa nay trong lịch sử, thậm chí tệ này vẫn hiện diện đầy rẫy trong xã hội hiện đại ngày nay. Nhưng thực sự đó là do Tuyên Phi dung túng hay Mậu Lân chính là điểm yếu của nàng (mặc dù nếu so sánh giữa Đặng Mậu Lân và Dương Khuông là em ruột của Dương Ngọc Hoan thì cũng là kẻ chín lạng người gần cân). Trong một gia đình ai có thể đảm bảo các nhân cách giống nhau, điều đó có nghĩa sự tha hóa của Mậu Lân âu cũng có thể là vượt ra ngoài khả năng kiểm soát cuả Đặng Thị. Sử chép nàng chỉ duy nhất xuất hiện một lần bao biện cho Mậu Lân đó là lần xin chúa tha chết cho Mậu Lân khi hắn ra tay giết Sử Trung là vệ sĩ, hầu cận quận chúa Ngọc Lan chứ không hề thấy các gi chép về việc nàng dung túng cho Mậu Lân làm bậy. Nếu là chúng ta liệu có ai có thể khoanh tay đứng nhìn em trai ruột của mình chết dưới lưỡi gươm của chồng mình?. Việc Mậu Lân được chúa nể Tuyên Phi mà tha mạng nhưng vẫn bị đầy đi biệt xứ cũng cho thấy rằng nàng cũng hoàn toàn thừa nhận và chấp nhận việc em trai mình bị xử phạt nặng. Điều đáng tiếc ở đây là Tuyên Phi đã không kịp thời ngăn chặn nhiều hành vi của em trai mình và đủ sáng suốt để nhận ra đó là vật cản lớn trên bước đường chính trị của mình. Ở điểm này cho thấy Tuyên phi cũng vẫn chưa vượt qua được thói thường nhi nữ trong các quan hệ cốt nhục tình thâm của gia đình Việt.
Ở ngôi chính cung chưa đầy ngày, Trịnh Sâm qua đời trong tay nàng, Trịnh Tông thừa cơ xúi giục quân cấm vệ gây biến, Quận Huy thiếu kinh nghiệm trong việc nội trị, lại cao ngạo chủ quan khinh xuất, dẫn đến loạn biến kiêu binh khi quan tài Trịnh Sâm còn quàn nơi phủ chúa. Đám kiêu binh Thanh Nghệ đã hò nhau đập phá phủ đệ của anh em Quận Huy. Phủ chúa một phen đầu rơi máu chảy, thời vàng son của Tuyên Phi và ấu chúa chấm dứt. Sau khi anh em Quận Huy bị kiêu binh giết hại, Tuyên Phi và ấu chúa phải một phen khiếp hãi trong đám loạn quân.  Đặng Thị Huệ “phải thay đổi trang phục  nấp trong hậu cung, các gia thần của chúa nhỏ cũng đều chạy trốn hết cả, riêng Quận Diễm bế chúa nhỏ lánh đi nơi khác, từ sớm đến tối không được ăn gì chúa nhỏ gào khóc nheo nhéo. Maĩ đến đêm Thánh Mẫu sai người đi tìm Thị Huệ và chúa nhỏ về cung cho thay quần áo và ăn uống, chúa nhỏ vì quá sợ hãi nên không ăn uống được bệnh tình càng nặng”[19] riêng người đẹp Đặng Thị Huệ rơi vào tay Dương Ngọc Hoan và kết cục là nàng bị hành hạ dã man, cuối cùng tự sát chết trong ngày giỗ chồng (1784).
Cuộc đời hồng nhan bạc mệnh của Tuyên Phi Đặng Thị Huệ đã khép lại sau loạn biến kiêu binh năm 1782 số phận nàng về sau, Cương Mục cũng có chép ít dòng, nhưng đại thể vẫn theo tinh thần của Hoàng Lê Nhất Thống chí. Về sau không ai nhắc tới nữa và lịch sử vẫn phán xét nàng căn cứ trên những trang viết của dòng họ Ngô Gia Văn Phái nhưng cũng không có một ai đời sau viết cho nàng những dòng khách quan nhất. Không thể nói Tuyên Phi hoàn toàn oan ức trong mọi chuyện, nhưng quả thực với những tư liệu của dòng họ Ngô Thì, Đặng Thị Huệ không hẳn là người đàn bà đầy mưu mô xảo quyệt. Nàng chỉ là người biết yêu và được yêu. Mặc dầu cũng có những tham vọng chính trị nhưng không phải bằng cách lấy xác đối phương chất thành bậc thang bước tới ngôi cao cho mình. Sự thất bại của Tuyên Phi cũng là sự thất bại của những tư duy chính trị bồng bột, từ tột đỉnh của xa hoa, người đẹp Kinh Bắc rơi xuống đáy sâu của sự cay đắng. Cái chết của Trịnh Sâm và sự thiếu kinh nghiệm trong chính trường của nàng và quận Huy đã chấm dứt hoàn toàn thời vàng son của người đẹp khuynh thành. Sự bạc nhược, bất tài của Trịnh Tông, Ngọc Hoan và đám quần thần yếu kém cũng đã khiến đám kiêu binh làm loạn cả Kinh thành. Có lẽ chưa bao giờ chính sự tại Thăng Long lại rối ren như vậy. Đó cũng là những dấu hiệu báo trước sự mạt kỳ của chế độ quân chủ chuyên chế. Số phận của Đặng Thị Huệ chỉ có thế lấy hai câu thơ của Tố Như mà cảm thán:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.!
(Nguyễn Du – Kiều)
 
[1] Trong tài liệu viết về Đặng Thị Huệ, Vũ Ngọc Khánh viết nàng “là cô gái quê mùa” là không đúng
[2] Ngô Gia văn phái (1984), Hoàng Lê nhất thống chí, Nxb VH, tr 12
[3] Vũ Ngọc Khánh (1990), Đặng Thi Huệ (? – 1783) in trong sách Người mẹ và phái đẹp, Nxb VH tr 89.
[4]  Ngô Gia văn Phái (1984), Hoàng Lê nhất Thống chí, Nxb VH, tr 19.
[5] Ngô Gia văn Phái (1984), “Hoàng Lê Nhất thống chí”, Nxb VH, tr 12.
[6] Ngô gia văn Phái, sđ d, tr 12
[7] Ngô gia văn phái, Hoàng lê nhất thống chí, Nxb văn học, tr 14.
[8] Vũ Ngọc Khánh, Đặng Thị Huệ, bài viết trong sách người mẹ và phái đẹp
[9] Ngô gia văn Phái, sđ d tr 14
[10] Ngô gia văn Phái, sđ d tr 15
[11] Ngô gia văn Phái, sđ d tr 15
[12] Ngô gia văn Phái, sđ d tr 16
[13] Ngô gia văn phaí, sdd, tr 18
[14] Ngô gia văn Phái, sđ d tr 20 - 24
[15] Ngô gia văn phái, sdd, tr 18
[16] Ngô gia văn phái, sđ d, tr 32- 33.
[17] Ngô gia văn phái,  sđ d, tr 95- 96
[18] Ngô gia văn phái, sđ d, tr 18
[19] Ngô gia văn Phái, sđ d, tr 53

 
 Từ khóa: sài sơn, quốc oai

Tổng số điểm của bài viết là: 11 trong 3 đánh giá

Xếp hạng: 3.7 - 3 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Giới thiệu về TS Nguyễn Ngọc Mai

Tiến sỹ:    Nguyễn Ngọc Mai. Ngày sinh: 30/3/1970 Học vị: Tiến sĩ    Năm phong học hàm:    2010 Chức vụ hành chính: Trưởng phòng nghiên cứu tín ngưỡng và tôn giáo truyền thống Ngành khoa học: Khoa học xã hội Chuyên ngành khoa học: Nhân học văn hóa Cơ...

Báo thể thao và văn hóa phỏng vấn TS Nguyễn Ngọc Mai
Thăm dò ý kiến

Bạn thấy nội dung của trang web KhaiTue.Edu.Vn của TS Nguyễn Ngọc Mai như thế nào?

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập6
  • Hôm nay1,391
  • Tháng hiện tại29,987
  • Tổng lượt truy cập6,600,832
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây